08/05/2020 19:43 GMT+7 | Thể thao
(Thethaovanhoa.vn) - Lưới, miếng lót ống chân và khu vực kĩ thuật chỉ là một phần của bóng đá, nhưng chúng từng là những phát kiến mang tính lịch sử.
Brodie, Colman và Widdowson nghe có vẻ giống như một công ty luật, nhưng ba cái tên này nên được ghi nhớ vì những đổi mới bền bỉ đã thay đổi bóng đá và đứng vững theo thời gian.
Lưới khung thành
Hãy thử tưởng tượng một khung thành sẽ như thế nào nếu không có lưới? Thậm chí, lưới bổ sung thêm gia vị cho nghệ thuật ghi bàn.
Cho dù đó là một cú vô lê đẹp mắt từ bên ngoài vòng cấm - hãy nghĩ tới tiếng hét của Andros Townsend trong trận gặp Man City vào năm 2018 - hoặc một pha dứt điểm đẳng cấp từ bên trong vòng 5,50 mét, lưới đã tô điểm cho khung thành. Nếu không có sự khéo léo và tầm nhìn xa của một kỹ sư thời Victoria từ Liverpool, chúng ta có thể không được tận hưởng cảm giác mành lưới rung lên.
Bộ quy tắc đầu tiên được FA công bố năm 1863 quy định rằng, các cột khung thành phải cách nhau 7,32 mét - một trong những quy tắc ban đầu vẫn còn hoạt động đến ngày nay. Xà ngang được giới thiệu sau đó, ban đầu chỉ là dải băng vào năm 1866, trước khi các thanh xà trở thành quy định bắt buộc vào năm 1882. Điều thú vị là một trong những bàn thắng gây tranh cãi nhất trong lịch sử đã được ghi vào đúng 100 năm ra mắt xà ngang.
Vài thập kỉ sau đó, lưới xuất hiện nhờ John Alexander Brodie, một kỹ sư từ Liverpool đã thiết kế đường vành đai đầu tiên của Vương quốc Anh, Đường hầm Mersey (đường hầm dưới nước dài nhất thế giới vào thời điểm đó) và phần lớn kiến trúc ở New Delhi. Vào tháng 10/1889, Brodie, một fan của Everton, đã đến xem đội bóng của anh gặp Accrington Stanley tại Anfield (sân nhà của Everton vào thời điểm đó). Everton nghĩ rằng họ đã ghi được bàn thắng quyết định, nhưng chỉ với các cột gôn và xà ngang để phán đoán, không ai có thể hoàn toàn chắc chắn là liệu cú sút đã vượt qua cột gôn hay chưa. Vì vậy, họ phải chấp nhận một trận hòa.
Brodie tức giận đến nỗi ông cố gắng tìm ra một giải pháp. Ông nảy ra ý tưởng tạo ra một cái túi chứa quả bóng có thể nằm sau khi đi qua khung thành. Brodie thực hiện với một loạt các thiết kế lưới khác nhau. Một trong những ý tưởng mang tính cách mạng của ông là gắn chuông vào lưới và nó sẽ kêu khi quả bóng chạm vào chúng. Đây chính là nguyên mẫu ban đầu của công nghệ goal-line sau này.
Ông đã được cấp bằng sáng chế vào năm sau và lưới đã vượt qua một thử nghiệm trong một trận đấu đại diện phía Bắc - Nam ở Nottingham. Bàn thắng đầu tiên ghi vào lưới là của một cầu thủ Everton, Fred Geary. Thú vị nữa là trận đấu được cầm còi bởi Sam Weller Widdowson, người đã phát minh ra miếng đệm ống chân sau đó. Chỉ trong vòng 1 năm, lưới đã được bổ sung vào các quy tắc FA. Nó đã có mặt trong trận chung kết FA Cup lần đầu tiên vào năm 1891 và được đưa vào sử dụng ở mùa giải tiếp theo.
Miếng đệm ống chân
Widdowson là một VĐV thể thao toàn diện và hồi còn thi đấu, ông đã thu hút sự chú ý của William McGregor, người sáng lập Football League. Người ta nói rằng, Widdowson có thể chạy 100 mét trong 10,25 giây.
Giống như Brodie đương thời, Widdowson đã tạo ra một thiết bị bóng đá tồn tại cho đến thời điểm hiện tại, nhưng sự khác biệt là thiết bị của Widdowson được lấy từ một môn thể thao khác. Widdowson không chỉ là đội trưởng của Nottingham Forest - và trở thành Chủ tịch của họ khi vẫn còn thi đấu - mà ông còn đại diện cho vùng Nottinghamshire ở môn cricket. Và ông lấy miếng lót chân từ môn thể thao mùa hè.
Năm 1874, Widdowson đã nảy ra ý tưởng về việc các cầu thủ bóng đá sử dụng những phiên bản nhỏ hơn của miếng lót cricket nhằm giảm bớt tác động của nguy cơ va chạm. Miếng đệm được đeo bên ngoài tất và ban đầu Widdowson bị chế giễu vì những miếng bảo vệ này, nhưng rồi sự dè bỉu đó đã sớm biến mất. Mặc dù hầu hết cầu thủ đã sử dụng miếng đệm trong hơn một thế kỷ, FIFA đã không bắt buộc cầu thủ bảo vệ ống chân cho đến năm 1990.
Đây không phải là phát kiến duy nhất của Widdowson. Ông cũng là người thử nghiệm với đèn pha, sử dụng đèn khí cho các trận derby giữa Forest-County. Và, trong những ngày làm trọng tài, ông là người ủng hộ việc sử dụng còi từ rất sớm, thay thế cờ trắng trước đây được sử dụng để thu hút sự chú ý với các quyết định của trọng tài.
Khu vực kĩ thuật
Một cái tên khác nên được thêm vào danh sách những người đổi mới bóng đá thời kỳ đầu là Donald Colman, mặc dù họ ban đầu của ông là Cunningham. Niềm đam mê với bóng đá của ông đã không được người cha chia sẻ bởi ông theo đạo và không chấp nhận một môn thể thao mà ông xem là vô duyên. Vì thế, ông đã nhận họ hồi trẻ của bà mình.
Colman có một sự nghiệp lâu dài và đa dạng. Ông khởi nghiệp với tư cách là một cầu thủ nghiệp dư cho Glasgow Perthshire trước khi chuyển sang chuyên nghiệp với Motherwell ở tuổi 27. Hai năm sau, ông đến Aberdeen, nơi dành phần lớn sự nghiệp của mình, được bầu làm đội trưởng và 4 lần khoác áo đội tuyển Scotland. Ông vẫn thi đấu cho đội bóng cuối cùng của mình, Dumbarton, ở tuổi 47, nhưng lúc đó, sự chú ý của ông đã chuyển sang công tác huấn luyện.
Triết lý huấn luyện của Colman đã đi trước thời đại. Colman nhấn mạnh vào lối chơi dựa trên giữ bóng với những cầu thủ tạo ra không gian bằng cách di chuyển không bóng, một phong cách có thể được coi là tiền thân của lối chơi tiki-taka. Là một người suy nghĩ sâu sắc về bóng đá, Colman rất muốn tìm hiểu thêm về kinh nghiệm huấn luyện ở bên ngoài Anh, đến mức ông đã dành nhiều mùa hè để huấn luyện đội SK Brann của thành phố Bergen tại Na Uy. Và chính ở Bergen, ông đã nảy ra ý tưởng về khu vực kĩ thuật.
Trong thời gian ở Scandinavia, Colman nhận thấy rằng các HLV chuyển thông điệp đến các cầu thủ từ những túp lều phía trước ở bên cạnh sân. Ông bắt đầu đùa giỡn với ý tưởng có một khu vực có mái che chìm, để có thể nghiên cứu bộ chân của cầu thủ trong tầm mắt.
Ngay khi được bổ nhiệm làm HLV tại Aberdeen vào năm 1931, Colman đã mang ý tưởng về khu vực kĩ thuật cho Pittodrie - đội bóng đầu tiên lắp đặt khu vực kĩ thuật tại một sân bóng chuyên nghiệp. Mái nhà trên đầu cho phép ông giữ cho các ghi chú của mình luôn khô ráo.
Ngay trước Thế chiến thứ hai, Everton đã tới Pittodrie thi đấu giao hữu trước mùa giải và rất ấn tượng với khu vực kĩ thuật mà họ sau đó cho lắp đặt tại Goodison Park. Khu vực kĩ thuật nhanh chóng trở nên phổ biến và phạm vi của chúng được mở rộng để dành cho HLV và cầu thủ dự bị. Khi số lượng người sử dụng khu vực kĩ thuật tăng lên, chúng được di chuyển lên mặt đất, và vào năm 1993, chúng được ghi nhận trong luật bóng đá khi FIFA thiết lập khu vực kỹ thuật, đánh dấu rõ ràng ranh giới cho mỗi đội.
Colman là một người đàn ông bóng đá thực sự. Ông cũng thiết kế giày bóng đá của riêng mình, và tình yêu của ông với bóng đá đã lan truyền khắp gia đình. Cháu gái lớn của ông sau này, Rachel Corsie, hiện đang là đội trưởng đội tuyển nữ Scotland.
Mạnh Hào
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Tải lại captchaĐăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất